Đấy là tên chữ của núi Cấm
(cao 716 mét). Có ý kiến cho rằng phải gọi là Thiên Cẩm Sơn mới đúng vì đấy là
một ngọn núi hùng vĩ,đẹp đẽ nhất trong dãy Thất Sơn, nằm trong khu tam giác Tịnh
Biên - Nhà Bàng - Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang.
Còn người dân tộc Khơ-me gọi núi Cấm là Thalot .
Lâm viên Núi Cấm |
I - Vì sao có tên núi Cấm?
Có nhiều giả thuyết về tên gọi :
Theo Nguyễn Văn Hầu, giả thuyết đáng tin cậy hơn cả là Phật
Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) đã cấm các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, giáo phái do
ông gầy dựng, lên đó cất nhà cửa hoặc chùa am để ở. Vì lẽ có người ở ăn tất sẽ
có sự ô uế núi non, một nơi linh tu mà ông nhận thấy cần giữ gìn cho trong sạch.
Cũng có giả thuyết cho rằng, Nguyễn Ánh khi bị quân Tây
Sơn truy nã có lúc phải bỏ Phú Quốc vào núi này để trốn lánh. Để cho tông tích
khỏi lộ, các cận thần của chúa Nguyễn phao tin nơi rừng núi có nhiều yêu quái
ác thú; nhiều dốc cao vực sâu nên nghiêm cấm dân chúng vào núi.
Cũng có giả thuyết khác cho rằng Đơn Hùng Tín (biệt danh
của Lê
Văn Tín, quê Cao Lãnh) có lúc dùng nơi này làm sào huyệt để xuất phát những
trận ăn cướp lớn. Do đó y cấm dân gian bén mảng tới để dễ bề ngăn chặn bọn do
thám, lính kín của Tây (Nguyễn Văn Hầu, nữa tháng trong miền Thất Sơn, Nxb Trẻ,
1996)
Vì vậy có thể từ lệnh "cấm" này khiến bây giờ
người ta quen gọi tên chữ là Thiên Cấm Sơn
chăng?
Thất Sơn là 7 ngọn núi tiêu biểu trong số 37 ngọn núi được
biết đến ở 2 huyện Tri Tôn, Tịnh Biên
thuộc tỉnh An Giang.
Nói đến “Thất Sơn” không ai ở An Giang là không biết đến,
kể cả biết bao khách du lịch hàng năm đổ về hành hương viếng Bà Chúa Xứ núi Sam
ở Châu Đốc. Vậy mà, nếu có ai đó truy vấn “Thất Sơn” là bảy ngọn núi nào thì có
lẽ người được hỏi cũng đâm ra lúng túng, bởi ngay cả giới nghiên cứu cũng chưa
đưa ra được lời giải đáp đủ sức thuyết phục. Lý giải về cái tên “Thất Sơn”, có
người cho rằng nó trùng hợp với tâm thức của người dân Nam bộ khi trong dân
gian quen có câu nói “nam thất, nữ cửu”, và vì đã có “Cửu Long” ắt phải có “Thất
Sơn” để âm dương được hòa hợp. Có người lại dựa theo bảng giải mã của Lạc Thư với
các con số dương 3-5-7 nằm từ hướng Đông sang Tây để giải thích, cho rằng đã có
Tam Đảo (miền Bắc), Ngũ Hành (miền Trung) thì cũng phải có Thất Sơn (miền Nam)
mới trọn vẹn ý nghĩa, thể hiện sự tốt đẹp, thống nhất và vĩnh cửu. Có người lại
gắn “Thất Sơn với biểu tượng tín ngưỡng, tương ứng với tứ linh “Long, Lân, Qui,
Phụng” và thế “Voi chầu, Hổ phục”: 6 ngọn núi với tên sáu con vật qúy bao
quanh, bảo vệ ngọn núi trung tâm là Thiên Cấm Sơn…
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí (1865) từ "Thất Sơn''lần
đầu tiên được ghi đó là các núi :Tượng Sơn, Tô Sơn, Cấm Sơn, Ốc Nhẫm, NamVi, Tà
Biệt, Nhân Hòa.
Nhưng theo Hồ Biểu Chánh (Thất Sơn Huyền Bí ), Nguyễn Văn
Hầu (Thất Sơn Màu Nhiệm) cho rằng đó là các núi : Tô, Cấm, Trà Sư, Két ,Dài, Tượng,
Bà Đội Om.
Có giả thuyết khác như của Trần Thanh Phương trong sách
Những Trang sử về An Giang, XB
năm 1984 cho rằng đó là các núi: Cấm
(Thiên Cấm Sơn ), Dài năm giếng (Ngũ Hồ Sơn ),Tô (Phụng Hoàng Sơn ), Giài (Ngọa
Long Sơn), Tượng (Liên Hoa Sơn ), Két
(Anh Vũ Sơn) và Nước (Thủy Đài Sơn )
Cũng có giả thuyết khác nữa cho rằng đó là các núi : Cấm,
Dài, Tô, Phú Cường, Nam Qui, Sam, khối
núi Trà Sư (gồm núi Giai, Két, Trà sư …)
III - Năm Non tại núi Cấm:
"Non'' thường chỉ một chỏm cao trên dãy núi, còn gọi
là "vồ''.
Theo Nguyễn Văn Hầu
(sách Thất sơn mầu nhiệm ) năm non chỉ 5 đỉnh núi cao của núi Cấm bao gồm :
1.Vồ Bồ Hong: là đỉnh cao nhất và nổi tiếng
nhất của Thất Sơn, cao 716m, ngày xưa ít người lui tới. Giả thuyết cho rằng nơi
này có nhiều côn trùng gọi là bồ hong sinh sống.
Về đêm, vồ Bò Hong sương mù phủ trắng và lạnh nhứt vào
mùa đông.Còn ban ngày, đứng tại nơi được coi là "nóc nhà" của Đồng bằng
sông Cửu Long này, khách tham quan có thể phóng tầm mắt nhìn thấy toàn cảnh những
cánh đồng ruộng ngút ngàn; sẽ thấy ngay cả con kinh Vĩnh Tế ( gắn liền với bao
công lao của cha ông thời mở cõi) chạy dài, tiếp giáp với sông Giang Thành chảy
ra tận biến Hà Tiên.
Vồ Bồ Hong đỉnh cao nhất của Núi Cấm |
2.Vồ Đầu: là đỉnh cao đầu tiên của Núi Cấm tính từ phía Bắc,
cao 584m.
3.Vồ Bà: cao 579, vồ này có điện thờ Bà Chúa Sứ.
4.Vồ Ông Bướm (Ông Voi ): cao 480m. Giả
thuyết cho rằng xưa kia có hai người Khmer lưu lạc giang hồ về cư trú nơi chỏm
đá này, đó là Ông Bướm và ông Vôi nên mới đặt tên như thế
5.Vồ Thiên Tuế: Nằm ở độ cao 541m so với mặt
nước biển, Thiên Cấm sơn (núi Cấm) không chỉ là “nóc nhà” của ĐBSCL mà còn chất
chứa trong lòng cả một kho tàng những câu chuyện ly kỳ nhuốm sắc màu huyền bí.
Tại đây từng bụi cây, ngọn cỏ, hòn đá đều gắn liền với truyền thuyết ly kỳ mà Vồ
Thiên Tuế - một trong 5 vồ (ngọn đồi nhỏ) trong hệ thống núi Cấm - là trường hợp
điển hình. Bởi ngay cả giả thuyết về sự ra đời của địa danh này cũng lung linh
huyền thoại.
Giả thuyết thứ nhất cho rằng do nơi đây này từng được vua
Gia Long đặt đại bản doanh trong những lần lẫn tránh sự truy đuổi của quân Tây
Sơn. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho nhà vua, lúc đó người ta gọi “trại” là vồ
thiên tuế ở.
Về sau do ảnh hưởng thói quen nói gọn của người Nam bộ,
đã hình thành địa danh vồ Thiên Tuế như ngày nay. Giả thuyết thứ 2 cho rằng do
nơi đây là lãnh địa của loài cây thiên tuế. Thiên tuế ở đây mọc thành rừng và
nhiều cây trở thành cổ thụ dài gần chục mét và được dự đoán “thọ” đến hàng trăm
năm tuổi.
Đại lão lương y Ba Lưới tên thật là Nguyễn Văn Y, hiện là
Trưởng ban Quản tự chùa Phật Lớn trên đỉnh núi Cấm, năm nay đã bước sang tuổi
bách niên-SN 1913, từng có hơn 70 năm gắn bó với ngọn núi này, lại cho rằng cả
2 giả thuyết đều... đúng.
Bởi ngoài việc còn lưu lại một số dấu tích được cho là liên
quan đến sự hiện diện của vua Gia Long như chiếc “ghế vua”, là phiến đá có hình
tương tự như chiếc ngai mà lúc lên đây vua Gia Long thường ngự tọa và “giếng
vua” là giếng nước tự nhiên nằm giữa phiến đá khổng lồ nhưng bốn mùa xuân-hạ-thu-đông
lúc nào cũng đầy ắp nước.
Tương truyền ngày xưa, khi tránh sự truy đuổi của quân
Tây Sơn lên đây một thời gian, ba quân tướng sĩ bị kiệt sức vì khô hạn, vua Gia
Long đã khấn nguyện rồi dùng kiếm đâm sâu vào lòng phiến đá khổng lồ dưới dân.
Kỳ lạ thay, dù ngay giữa mùa khô hạn, nhưng khi mũi kiếm vừa rút lên, thì từ
lòng đá cũng phụt lên dòng nước ngọt mát lành. Nhờ đó mà tướng sĩ vượt qua cơn
khát… Để ghi nhận sự kiện thần kỳ này, vua Gia Long gọi đây là Giếng do Tiên
ban tặng.
Từ đó nguồn nước giữa phiến đá này có tên là Giếng Tiên.
Trải qua hàng trăm năm, đến nay Giếng Tiên vẫn bốn mùa đầy ắp nước ngọt.
Hang Ông Hổ gần Vồ Thiên Tuế
|
IV - Bác vật Lang: Vì sao hang có tên ấy & Bác vật Lang là ai ?
(Ngày trước danh từ Bác vật có nghĩa gần giống
như từ Bác học bây giờ; nó dùng để chỉ những người thông thái, hiểu biết sâu về
một hay nhiều lĩnh vực khoa học)
Kỹ sư Lưu Văn Lang sinh ngày 5/6/1880 (mất ngày 3/8/1969)
tại Tân Phú Đông, Sa Đéc (Đồng Tháp). Ông sinh và lớn lên trong một gia đình
làm nghề thủ công phục vụ cho nông nghiệp.Dù nhà nghèo nhưng do chăm chỉ nên
ông giành được học bổng tại trường Chasseloup Laubat Sài Gòn, năm 17 tuổi đậu
tú tài 2 của Pháp với số điểm xuất sắc, được học bổng sang Pháp học École
Centrale de Paris - nơi đào tạo kỹ sư lớn nhất nước này.
Năm 1904, ông tốt nghiệp kỹ sư hạng ưu (đứng thứ 3 trong
số 250 người) là kỹ sư đầu tiên của Nam Bộ thời bấy giờ. Về nước, ông được nhà
cầm quyền cử sang Vân Nam (Trung Quốc) tham gia xây dựng tuyến đường xe lửa nối
Trung Quốc với Đông Dương. Ông thường xuống Bạc Liêu theo dõi các công trình
xây dựng.
Nhiều người kể, khi cầu Long Thạnh do kỹ sư Pháp xây dựng
sắp xong, ông lấy gậy gõ vào thành cầu rồi khẳng định với kỹ sư Pháp rằng một
tháng nữa cầu sẽ sập. Viên kỹ sư Pháp hết sức phẫn nộ nhưng rồi vô cùng bái phục
bởi cây cầu sập đúng như ông nói. Từ đó cầu Long Thạnh được gọi là cầu Sập.
Viên tỉnh trưởng Bạc Liêu thời đó rất khâm phục Lưu Văn Lang nên đối đãi ông rất
hậu hĩ. Để đáp lại tình cảm đó, ông xây tặng viên tỉnh trưởng chiếc đồng hồ đá
này.
Hiiện đồng hồ đá
nằm trong khuôn viên (phía sau dãy nhà giữa) Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh
Bạc Liêu, số 84 đường Hai Bà Trưng, thị xã Bạc Liêu, được Bảo tàng tỉnh tôn tạo,
giữ gìn và được đưa vào điểm tham quan lịch sử.
Trở lại chuyện, người ta kể rằng ngày 23 tháng 9 năm
1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn mở màn cuộc chiến tranh xâm lược
nước ta lần thứ 2.
Lưu Văn Lang được mời tham gia Hội đồng Nam Kỳ của chính
phủ "bù nhìn" Nguyễn Văn Thinh .Ông đã thẳng thắn trả lời: Je suis
trop vieux pour sevir de valet !(tôi đã quá già để làm tay sai)…
Và một lần người
Pháp đã đưa Bác vật Lang lên núi Cấm và thòng dây thả ông xuống để thám sát
lòng hang.Trong hang rất tối, lạnh lẽo, thiếu dưỡng khí nên mọi thứ đèn đuốc đều
khó cháy sáng. Sau gần một ngày xem xét ở dưới đó, ông trở lên mặt đất và từ đó
ông không nói một lời nào…Và cũng từ đó hang sâu này được người đời gọi theo tên của ông. Sau này tên Bảy
Đởm, một tay anh chị của đất miền Tây, theo giặc được phong đến chức "thiếu
tá" đã cho pháo binh ở căn cứ Chi Lăng bắn lên cho đá lấp cửa hang lại. Dù
chuyện xảy ra đã lâu, hôm nay nhiều người vẫn tìm đến chỉ để đứng trước cửa
hang, thầm tưởng tượng những gì vừa thiêng liêng, kỳ bí nơi chốn thẳm cùng vừa
để thắp một nén hương tưởng niệm một con người tài ba và khảng khái của đất Nam
bộ.
Đồng hồ đá do nhà bát vật Lưu Văn Lang tặng tỉnh trưởng Bạc Liêu |
V - Điểm qua vài danh lam :
1. Chùa Vạn Linh: Cấm Sơn có một vài ngôi chùa và nhiều am cốc, như chùa Phật Nhỏ, chùa Phật Lớn, Trung Sơn Thiên Tự, Cao đài tự…, trong đó có một ngôi chùa được đông đảo người đến chiêm bái ,đó là chùa Vạn Linh
Là danh lam trên đỉnh núi Cấm. Chùa là một kiệt tác về kiến
trúc, vừa mang sắc thái Á Đông vừa mang tính hiện đại, vừa bề thế vừa trang
nghiêm và hài hòa với khung cảnh xanh tươi, hùng vĩ, nhiều huyền thoại của núi
rừng…
Chùa Vạn Linh trước đây có tên là chùa Lá. Người bạt núi
dựng chùa đầu tiên là Nguyễn Văn Xứng, sinh năm 1895 tại Bến Tre, đệ tử của tổ
Phi Lai thuộc dòng Lâm Tế. Ngài đã xuất gia lên núi tìm thầy học đạo từ năm
1918, pháp danh là Thượng Thiện Hạ Quang.
Hòa Thượng Thích Hoằng Xưng, thường trực tại bổn chùa hiện nay cho biết:
Vào năm 1929, Hòa Thượng Thích Thiện Hạ Quang đã chọn đất lập am thờ Phật, lúc
đầu làm bằng tranh lá đơn sơ để ẩn tu, dần dần số đệ tử quy tụ về đông hơn, mới
cùng nhau ra công góp sức tu bổ. Đến năm 1940, cái am nhỏ bắt đầu đổi thành
chùa, lấy tên là chùa Vạn Linh. Năm 1943 chùa được xây dựng lại đàng hoàng hơn,
to đẹp và kín đáo hơn. Đến năm 1946, chùa bị quân Pháp phá hủy hoàn toàn. Mãi tới
sau ngày Pháp rút đi, chùa mới được xây dựng lại kiên cố hơn. Rồi chiến tranh lại
xảy ra, năm 1970, máy bay Mỹ đã ném bom biến cả khu vực chùa Vạn Linh thành
bình địa. Giữa cảnh hoang tàn đổ nát, ông Lâm Cáo Kía, một cư sĩ mộ đạo Phật, đứng
ra dựng lại một cái chòi lá ngay trên nền chùa cũ và lập bàn thờ Phật để ngày
đêm hương khói.(nay chòi lá được kiến tạo lại bằng xi măng trông giống hệt như
tre lá thật )
Cho đến năm 1983,
ngôi Chùa Lá mới phục hồi. Năm 1995, được chính quyền địa phương ủng hộ, các sư
tăng cùng người tín ngưỡng bắt tay vào việc thiết kế và xây dựng chùa mới gần
bên nền chùa cũ.Chỉ tính việc vận chuyển sắt thép, xi măng, gạch ngói…từ chân
núi lên đến tận đỉnh, trong khi đường đá hãy còn khúc khuỷu, lởm chởm, dốc đứng
kề bên vực sâu…ai nấy đến thăm viếng đều trầm trồ thán phục trước tâm và lực của
những con người miệt mài xây dựng nên danh lam này. Hiện nay chùa bao gồm tiền
đường và hậu đường. Phần chính điện là nơi an vị các tượng Phật sơn son thếp
vàng lộng lẫy giữa một khung cảnh trang nghiêm, trầm mặc và thoát trần, tạo ra
một ấn tượng thẩm mỹ giữa phong cảnh u tịch của núi rừng.Trước tiền đường nhìn
ra là Quan Âm các cao 35 mét, là tháp chuông với quả đại hồng chung nặng 1,2 tấn;
là tháp chín tầng mỗi tầng an vị một vị
Phật bằng đá cẩm thạch lớn cở người thật, tạc rất mỹ thuật.Và bên phải là tháp
Tổ có khắc thơ hoặc kệ giáo huấn…
Chung quanh chùa là những vườn hoa, vườn kiểng, vườn cây
ăn trái và cây rừng tươi tốt bốn mùa, tạo nên một phong cảnh vừa nên thơ vừa rất
thiền… Toàn cảnh tạo nên một nét đẹp hài hòa giữa lối kiến trúc tôn giáo và cảnh
sắc thiên nhiên
Chùa Vạn Linh trên Núi Cấm
|
2. Chùa Phật Lớn & tượng Phật
Di Lặc :
Nghe tên ắt chùa
hẳn ai cũng tưởng đó là danh lam đồ sộ, uy nghi, nào ngờ chỉ là một ngôi chùa
nhỏ bé, nằm trong không gian tĩnh mịch, chìm đắm bên những gốc bồ đề cổ thụ nhuốm
màu thời gian hơn một thế kỷ. Không gian thờ phượng cũng khá chật hẹp với một
tượng Phật không lớn. Tuy vậy, những người cao tuổi và người Việt gốc khơ-me rất
sùng kính nơi này.
Theo lời kể, thuở xa xưa nơi đây có một ngôi chùa của người
Khơ-me rất đẹp đẽ, to lớn; nhưng vì sự tàn phá của thời gian, vì chịu nhiều nhiều
bom đạn nên chùa cũ đã hư hại hoàn toàn.
Để từng bước tôn tạo lại, vào tháng 10 năm 2003, ban quản
trị chùa Phật Lớn đã cho thi công tượng đài đức Phật Di Lặc cao 33,60 mét, sừng
sững giữa một vùng cây cối xanh um, mặt hướng về chùa Phật Lớn và chùa Vạn
Linh. Tượng Phật Di Lặc vừa mới hoàn thành trong năm 2006, kỳ thú nhứt là khách
tham quan đứng ở bất cứ nơi nào trên các vồ núi cũng đều nhìn thấy tượng Phật
trắng uy nghi giữa một không gian xanh, thoáng mát …
Đây là một công
trình nghệ thuật tôn giáo đồ sộ nhứt từ trước tới nay trên vùng Bảy Núi, cũng
có thể nói hiện nay, đây là tượng Phật lớn nhất Đông Nam Á.
Tượng Phật Di Lạc trên Núi Cấm
|
3. Cao Đài Tự:
Năm 1941,Giáo chủ đạo Cao Đài là Phạm Công Tắc lên núi Cấm
lập bản doanh. Tháng 4-1943, Nguyễn Ngọc Điền tự xưng là "Đại nguyên
soái". Ông ta cho người vào rừng tìm hạ một cây gỗ lớn để làm cột cờ .Khoảng
150 người hết sức vất vả trong nhiều ngày mới mang được cây gỗ dài gần 30 thước,đường
kính gốc 8 tấc về tới sân bản doanh.Nhưng rồi cả "triều đình" không
ai biết cách nào để dựng cột cờ lên được. "Đại nguyên soái" phải cho
người qua chùa Lá (Vạn Linh) đón hai thầy trò Thiện Quang và Thiện Thới (tức
ông Hai Sự, người rất giỏi võ và có sức khỏe thật phi thường) sang trợ giúp.
Lúc dựng cờ xong, Giáo chủ và "Đại nguyên soái"
rất vui nên cho mở tiệc ăn mừng.Bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo đến, rồi một cơn cuồng
phong nổi lên.Lá cờ dài hơn 3 mét, rộng 2 khổ vải, thêu 4 chữ "Hoàng đế xuất
dương" bị gió lốc cuốn phăng đi. Mãi mấy tháng sau, mới có người tìm thấy
"ông"( tức lá cờ) nằm tận bên vồ Thiên tuế.Còn cây cờ bị mưa ập xuống
quật ngã làm hư hại nhiều "đền đài".
Riêng"Đại nguyên soái" cùng mấy bà "phi tần"
bị giông tố hất văng xuống khe sâu.Sau khi cấp cứu sơ, ông Hai Sự đồng ý nhận
lãnh việc đưa mấy bà này xuống núi vào nằm nhà thương ở chợ Sà- tón ( nay là chợ
Tri Tôn )…
Năm ngoái tôi có
đến thăm và ngủ đêm tại chốn này.Trên đỉnh đồi xưa, giờ chỉ còn một ngôi chùa
nhỏ đơn sơ, quạnh quẽ tên Cao Đài Tự; môt dãy nhà tol lá dành cho khách thập phương tạm trú.
Cao Đài Tự trên Núi Cấm
|
Nhận xét
Đăng nhận xét